-
-
-
Tổng cộng:
-
Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS tại Việt Nam
Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS – International Financial Reporting Standards), đến năm 2001 thì các IAS đã dần được các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS thay thế. Sự thay đổi này được thúc đẩy bởi các nhu cầu cập nhật và hoàn thiện khái niệm cũng như tiêu chuẩn hiện tại, do đó đã có tới khoảng 144 khu vực pháp từ từ quốc gia trên thế giới bắt buộc áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế trong quá trình ghi chép và lập báo cáo tài chính.
Ngoài ra, vẫn còn nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam) vẫn còn áp dụng hài hòa cả hai nội dung của IAS và IFRS một cách phù hợp với từng đặc điểm của nền kinh tế.
Danh sách các chuẩn mực báo cáo tài chính IFRS
Chuẩn mực IFRS bao gồm 16 chuẩn mực khác nhau như sau:
STT |
Chuẩn mực |
Tên tiếng Anh |
Tên tiếng Việt |
1 |
IFRS1 |
First - time Adoption of International Financial Reporting Standards |
Lần đầu áp dụng IFRS |
2 |
IFRS2 |
Share - based Payment |
Thanh toán trên cơ sở cổ phiếu |
3 |
IFRS3 |
Business Combinations |
Hợp nhất kinh doanh |
4 |
IFRS5 |
Non - current Assets Held for Sale & Discontinued Operations |
Tài sản dài hạn nắm giữ nhằm để bán và hoạt động không liên tục |
5 |
IFRS6 |
Exploration for & Evaluation of Mineral Assets |
Thăm dò và đánh giá các tài sản nguyên khoáng sản |
6 |
IFRS7 |
Financial Instruments - Disclosures |
Công cụ tài chính: Trình bày |
7 |
IFRS8 |
Operating Segments |
Bộ phận kinh doanh |
8 |
IFRS9 |
Financial Instruments |
Công cụ tài chính |
9 |
IFRS10 |
Consolidated Finanacial Statements |
Báo cáo tài chính hợp nhất |
10 |
IFRS11 |
Joint Arrangements |
Thỏa thuận liên doanh |
11 |
IFRS12 |
Disclosure of Interests in Other Entities |
Thuyết minh về các lợi ích trong đơn vị khác |
12 |
IFRS13 |
Fair Value Measurement |
Xác định giá trị hợp lý |
13 |
IFRS14 |
Regulatory Deferral Accounts |
Các khoản tiền hoãn lại theo luật định |
14 |
IFRS15 |
Revenue from Contracts with Customers |
Doanh thu từ việc ký hợp đồng với khách hàng |
15 |
IFRS16 |
Leases |
Thuê tài sản |
16 |
IFRS17 |
Insurance Contracts |
Hợp đồng bảo hiểm |
Bảng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)
Áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS
Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS tại Việt Nam hiện không bắt buộc phải tuân theo, bởi vì mỗi quốc gia sẽ có điều kiện cũng như trình độ phát triển kinh tế khác nhau và yêu cầu trình độ quản lý cũng không giống nhau.
Tuy nhiên trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, việc áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) giúp cho thông tin báo cáo tài chính của doanh nghiệp (DN) minh bạch và có độ tin cậy cao hơn, tăng khả năng so sánh trên phạm vi là cơ sở để nhà đầu tư trong và ngoài nước đưa ra các quyết định kinh tế.
Năm 2020, Bộ Tài chính đã ban hành Đề án áp dụng IFRS tại Việt Nam, trong đó đề cập đến hướng đi cho Việt Nam, lộ trình áp dụng, biện pháp triển khai, thực hiện đến năm 2025. Điều này đặt ra yêu cầu DN Việt Nam phải chủ động chuẩn bị về kiến thức, kỹ năng để sẵn sàng cho việc áp dụng IFRS.
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA KHI ÁP DỤNG IFRS Ở CÁC DN VIỆT NAM
Thứ 1: Những mặt ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp
Tại Việt Nam hiện nay, báo cáo tài chính của các DN đang được áp dụng theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) được Bộ Tài chính ban hành thành 5 đợt từ năm 2001 đến năm 2005 với 26 chuẩn mực. Trong khi đó, IFRS bao gồm hơn 40 chuẩn mực, trong đó có một số chuẩn mực mới được ban hành và áp dụng trong một vài năm gần đây, như: IFRS 9 – Công cụ tài chính, IFRS 15 – Doanh thu từ các hợp đồng khách hàng, IFRS 16 – Thuê tài sản, trong khi 26 Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) hiện nay được soạn thảo và ban hành trong giai đoạn 2001-2005.
Do vậy, đang có một sự khác biệt rất lớn giữa VAS và IFRS. Theo một số khảo sát về việc chuyển đổi sang IFRS ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhiều DN đã bị thất bại hoặc gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn chuyển đổi, mà một trong các nguyên nhân chính là vì lãnh đạo của các DN đó suy nghĩ rất đơn giản là chuyển đổi sang IFRS chỉ là việc thay đổi chính sách kế toán và là trách nhiệm của bộ phận kế toán (Daske, H. et al, 2008; Li, S., 2010). Tuy nhiên, trên thực tế, IFRS cần rất nhiều sự thay đổi của DN và đòi hỏi phải có sự hiểu biết và hợp tác của nhiều bộ phận khác nhau trong DN.
Sau khi xác định được những khác biệt trọng yếu giữa VAS và IFRS, DN sẽ phải đánh giá ảnh hưởng của những khác biệt này có liên quan đến quy trình kinh doanh nào để có thể đề ra những yêu cầu cụ thể cho các phòng, ban liên quan. Ví dụ: phòng kế toán cần xác định những thông tin nào cần phải có để phục vụ cho công tác hạch toán kế toán IFRS mà hiện thời hệ thống báo cáo theo VAS chưa có và phối hợp với phòng bán hàng và pháp chế rà soát và sửa đổi các điều khoản của hợp đồng bán hàng, mua hàng, hợp đồng vay, thuê tài sản…, sau đó làm việc với bộ phận công nghệ thông tin để tiến hành sửa đổi, cập nhật các trường dữ liệu, thông tin mới trong hệ thống công nghệ thông tin của DN để có thể cung cấp đầy đủ dữ liệu cho công tác hạch toán kế toán theo IFRS.
Thứ 2: Thách thức về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực ở đây không chỉ giới hạn ở đội ngũ các nhân viên kế toán của các DN là đối tượng áp dụng IFRS, mà bao gồm cả lãnh đạo của các công ty này, vì họ là người chịu trách nhiệm phê duyệt báo cáo tài chính.
Các DN áp dụng IFRS sẽ phải thành lập một nhóm dự án triển khai IFRS riêng biệt, bao gồm những nhân viên được đào tạo chuyên sâu về IFRS vì sẽ rất khó khăn cho đội ngũ kế toán hiện thời của các DN áp dụng IFRS vừa phải thực hiện công tác kế toán theo VAS (trong giai đoạn chuyển đổi) vừa phải đi đào tạo về IFRS để có thể hạch toán kế toán và trình bày báo cáo theo IFRS. Ngoài ra, các nhân sự được giao triển khai IFRS cũng cần phải đạt được một trình độ tiếng Anh khá cao để có thể tự mình nghiên cứu các quy định và diễn giải của IFRS trong trường hợp các hướng dẫn IFRS bằng tiếng Việt chưa được ban hành một cách đầy đủ.
Ngoài ra, theo Quyết định số 345/QĐ-BTC, các DN áp dụng IFRS sẽ thực hiện lập báo cáo tài chính hợp nhất theo IFRS, điều này có nghĩa là các công ty con, công ty liên kết của họ cũng sẽ phải lập các bộ báo cáo thông tin tài chính cho mục đích lập báo cáo tài chính hợp nhất của công ty mẹ theo IFRS. Do vậy, các công ty con, công ty liên kết này cũng cần phải tuyển dụng và đào tạo các cán bộ kế toán có khả năng lập các bộ thông tin tài chính cho mục đích hợp nhất theo IFRS.
Trong khi đó, thực tế hiện nay, rào cản ngôn ngữ tiếng Anh và các thuật ngữ khó hiểu mang tính học thuật, ước lệ của từ vựng chuyên ngành kế toán gây ra không ít khó khăn cho các kế toán viên, bởi vì hiện nay nhìn chung đội ngũ kế toán viên nước ta đang thiếu nguồn nhân lực trình độ cao. Ngoài ra, về vấn đề đào tạo, mới chỉ có một vài trường đại học lớn trong cả nước đã mạnh dạn triển khai dạy các khoá về kế toán quốc tế theo nội dung của IFRS…
Thứ 3: Thách thức về hệ thống công nghệ thông tin
Để có thể lập báo cáo tài chính theo IFRS, tối thiểu ở cấp độ công ty mẹ, các DN áp dụng IFRS sẽ phải thiết lập và duy trì một hệ thống phần mềm và sổ sách kế toán theo IFRS. Khó khăn đối với Việt Nam là trong giai đoạn đầu, các DN sẽ tiếp tục lập báo cáo tài chính riêng theo VAS và chỉ thực hiện lập báo cáo tài chính hợp nhất theo IFRS, điều đó có nghĩa là các DN sẽ phải duy trì song song 2 hệ thống tài khoản kế toán, sổ sách kế toán riêng biệt theo VAS và IFRS.
Thứ 4: Ảnh hưởng tiêu cực đến báo cáo tài chính khi áp dụng IFRS lần đầu tiên
Khi lập báo cáo tài chính năm đầu tiên theo IFRS, nhiều DN sẽ phải đối mặt với những ảnh hưởng tiêu cực đến báo cáo tài chính do có sự khác biệt lớn giữa VAS hiện tại và IFRS, cụ thể như sau:
– Tổn thất tài sản: Theo quy định của Chuẩn mực kế toán quốc tế số 36 (IAS 36) – Tổn thất tài sản, nếu giá trị ghi sổ của tài sản của một DN cao hơn giá trị có thể thu hồi của tài sản đó thì DN phải ghi nhận khoản Dự phòng tổn thất tài sản ngay vào báo cáo thu nhập toàn diện trong kỳ. Ở Việt Nam hiện nay chưa có Chuẩn mực kế toán tương đương với IAS 36. Vì vậy, đây sẽ là một chuẩn mực có thể có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với báo cáo tài chính IFRS lần đầu tiên của những DN làm ăn thua lỗ hoặc có các công ty con hoặc bộ phận hoạt động thua lỗ, những dấu hiệu cho thấy là tài sản của họ có thể bị tổn thất.
– Thuê tài sản: Theo quy định của VAS 06 – Thuê tài sản, các tài sản thuê hoạt động không được ghi nhận tên bảng cân đối kế toán. Còn theo quy định của IFRS 16 – Thuê tài sản, thì các khoản thuê hoạt động sẽ được ghi nhận ngay trên báo cáo tình hình tài chính của DN như là Quyền sử dụng tài sản và Nợ thuê phải trả. Đối với những DN có các tài sản thuê hoạt động với các bên cho thuê ở nước ngoài, khoản nợ thuê phải trả sẽ được coi là một khoản nợ tài chính có gốc bằng ngoại tệ và theo quy định về báo cáo tài chính, khoản nợ tài chính có gốc bằng ngoại tệ này sẽ phải được đánh giá lại theo tỷ giá thực tế tại DN lập báo cáo tài chính. Ví dụ đối với những DN hoạt động trong lĩnh vực hàng không, việc áp dụng IFRS 16 sẽ có ảnh hưởng rất lớn vì phần nhiều máy bay trong đội tàu bay của họ đều là các máy bay thuê hoạt động với tiền thuê phải trả bằng ngoại tệ.
– Do các DN sẽ lập báo cáo tài chính riêng theo VAS, còn báo cáo tài chính hợp nhất theo IFRS, sẽ có tình huống xảy ra là báo cáo riêng theo VAS thì DN có lãi, còn báo cáo hợp nhất theo IFRS sẽ bị lỗ và DN sẽ không thể phân chia lợi nhuận cho các cổ đông, bởi vì theo quy định của Việt Nam, phần lợi nhuận sau thuế dùng để chia cổ tức sẽ được tính trên số nhỏ hơn giữa báo cáo tài chính riêng và báo cáo tài chính hợp nhất.
Theo Quyết định số 345/QĐ-BTC thì Giai đoạn chuẩn bị sẽ diễn ra từ năm 2020 đến hết năm 2021, sau đó Giai đoạn áp dụng tự nguyện từ năm 2022 đến hết năm 2025. Có thể hiểu là, Giai đoạn chuẩn bị là thời gian để Bộ Tài chính tiến hành biên soạn và đưa ra hướng dẫn về IFRS bằng tiếng Việt và chưa bao gồm thời gian để cho các DN tìm hiểu về IFRS, tuyển dụng và đào tạo nhân sự về IFRS.
Như vậy các DN Việt Nam và ban kế toán phải chủ động chuẩn bị về kiến thức, kỹ năng để sẵn sàng cho việc áp dụng IFRS trong những năm tới.